Luật sư tư vấn pháp luật-Theo quy định tại Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì bất động sản được xác lập trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng, khi chuyển nhượng phải được sự đồng ý của cả vợ và chồng.
Do đó, khi chuyển nhượng đất, bên chuyển nhượng (bên bán) phải có giấy đăng ký kết hôn, nếu là người độc thân thì phải có giấy chứng nhận quyền công dân (để đảm bảo chuyển nhượng bất động sản chính xác trong tài sản của mình).
Bên nhận chuyển nhượng (bên mua) không cần phải có giấy tờ xác nhận tình trạng hôn nhân. Sở dĩ như vậy là do giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và bất động sản khác do một người đứng tên, nhưng nếu hình thành trong thời kỳ hôn nhân thì cũng là tài sản chung của vợ chồng. Nếu sau đó được chuyển nhượng cho người khác thì phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng.
Theo Nghị định số 123/2015 / Điều 21 của NĐ-CP, Ủy ban nhân dân cấp xã, công dân Việt Nam thường trú cấp Giấy chứng nhận quốc tịch.
Trường hợp công dân Việt Nam không có quyền thường trú nhưng đã đăng ký tạm trú theo quy định của Luật Cư trú thì Ủy ban cấp xã hoặc nơi đăng ký tạm trú của người đó cấp giấy phép cư trú. Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân.
Luật sư, Đoàn Luật sư TP.HCM, TP.HCM